CƠ QUAN SOẠN THẢO CHO BIẾT ĐÃ TIẾP THU Ý KIẾN GÓP Ý TRÊN TẠI KHOẢN 1 ĐIỀU 70 LÀ VIỆC SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT ĐÚNG VỚI HƯỚNG DẪN ĐÃ GHI TRÊN NHÃN THUỐC
I. Chứng nhận hợp chuẩn cửa nhựa UPVC Các chất bảo quản trái cây và rau quả thuộc về nhóm chất điều hòa sinh trưởng nên thuộc danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam
Tổng kinh phí được phê duyệt ước tính hơn 13,2 tỷ đồng, trong đó bao gồm các chi phí xử lý ô nhiễm kho thuốc, bồi thường giải phóng mặt bằng, quản lý dự án, tư vấn đầu tư xây dựng, chi phí dự phòng, và các chi phí khác. Hiện dự án đã hoàn thành phần việc tư vấn điều tra, khảo sát lấy mẫu và phân tích môi trường, tư vấn lập dự án đầu tư, thẩm định dự án… với tổng giá trị thực hiện 545 triệu đồng. Phần công việc lập kế hoạch đấu thầu bao gồm xử lý ô nhiễm kho thuốc, tư vấn lựa chọn nhà thầu thi công xây dựng, tư vấn giám sát thi công, quan trắc lấy mẫu phân tích phục vụ kiểm tra nghiệm thu, quan trắc giám sát môi trường sau xử lý với tổng giá trị gần 10 tỷ đồng. Các biện pháp sơ cứu Cần đọc kỹ nhãn về phòng chống độc. Bình tĩnh đưa nạn nhân ra xa nơi nhiễm thuốc, cởi đồ nhiễm thuốc và rửa sạch vùng da nhiễm thuốc. Gây nôn, nếu nạn nhân còn tỉnh táo và nhãn thuốc cho phép. Đặt nạn nhân nằm ổn định, giữ ấm nếu thấy lạnh. Trường hợp nạn nhân nóng quá, cần lau bằng khăn lạnh. Theo dõi nhịp thở, nếu ngừng thở thì làm hô hấp nhân tạo, phải kiên trì đến khi nạn nhân thở lại bình thường. Không cho uống sữa vì bảo vệ thực vật sữa làm thuốc thấm nhanh vào ruột, chỉ cho uống nước đun sôi để nguội hoặc nước trà đường loãng. Tuyệt đối không cho người bị nhiễm độc hút thuốc, uống rượu. Đưa nạn nhân đến nơi cấp cứu gần nhất và phải mang theo nhãn thuốc để nhân viên y tế biết loại thuốc BVTV nào để chẩn đoán, điều trị kịp thời.. Quan điểm khác nhau về thẩm quyền công bố dịch tại các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương Ông Phạm Xuân Thăng, đảm bảo sức khỏe nhân dân và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp. Nếu chúng ta quản lý tốt nguồn đầu vào chất bảo vệ thực vật chắc chắn sẽ không xảy ra tình trạng rau củ quả dính” dư lượng chất bảo vệ thực vật tran lan như hiện nay, công ty sản xuất phân bón T.P.N huyện Củ Chi bị công ty T.L tố nhái” nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ độc quyền. Gừng Trung Quốc chủ yếu được các nhà hàng sử dụng vì đỡ mất công chế biến, nghị định 26/2003/NĐ-CP về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật do Chính phủ ban hành đến nay đã 7 năm. Đây cũng là những thiệt thòi của người nông dân, tập thể có liên quan việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.
Công tác bảo vệ và kiểm dịch thực vật trong 10 năm qua chỉ được thực thi bằng Pháp lệnh đã dẫn đến nhiều lỗ hổng” trong công tác quản lý.ảnh minh họa: cand. Họ và tên: Địa chỉ Email:. Tuy nhiên, việc lạm dụng, sử dụng không đúng hướng dẫn thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp đang ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe và đời sống nhân dân.Hiện cả nước có khoảng 70% trong số 15-20 triệu người thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV, đã có triệu chứng ngộ độc. Mỗi năm cả nước xảy ra hơn năm nghìn ca nhiễm độc hóa chất BVTV phải điều trị tại các cơ sở y tế, trong đó hơn 300 trường hợp tử vong... Những hậu quả gây ra là do nhận thức của người dân. Tuy Bao ve thuc vat nhiên, một phần là do công tác hướng dẫn, tuyên truyền của các ngành chức năng chưa thật sâu rộng để bà con nông dân hiểu rõ tác hại của thuốc BVTV gây ra khi dùng không đúng. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1946/QĐ-TTg về việc xử lý triệt để và phòng ngừa ô nhiễm môi trường do hóa chất BVTV tồn lưu trên phạm vi cả nước, có thể coi là một trong những động thái quyết liệt nhằm giải quyết triệt để vấn đề này. Theo đó, từ năm 2010 đến năm 2015, tập trung xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường tại 240 điểm tồn lưu gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Từ năm 2016-2025, tiếp tục điều tra, xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường tại 95 điểm tồn lưu còn lại. Các ngành chức năng cần tuyên truyền bằng các biện pháp quyết liệt hơn để người dân biết rằng chất độc có thể ảnh hưởng tính mạng của chính mình, đến cả các thế hệ con cháu để người dân hiểu và cẩn trọng hơn. Vì vậy, bà con cần sử dụng thuốc BVTV một cách hiệu quả, chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và tuân thủ theo đúng hướng dẫn trên nhãn mác, bởi trong một loại thuốc khi đóng gói hay chai bắt buộc phải ghi trên nhãn mác, ngày sản xuất, hạn sử dụng, liều lượng, quy cách... Có như vậy mới hạn chế được tình trạng dùng thuốc BVTV một cách tùy tiện, không đúng quy trình hướng dẫn, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hủy hoại môi trường nghiêm trọng. Truy xuất nguồn gốc rau củ để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.Ảnh: TM.. Công bố hợp chuẩn
Phát hiện mẫu hồng và táo tươi không đảm bảo an toàn - Ảnh minh họa: Thanh Tao. Sử dụng thuốc BVTV không đúng phương pháp và liều lượng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người Sử dụng đúng, thuốc BVTV giúp đẩy lùi dịch hại, giữ năng suất cây trồng cao và ổn định. Nhưng trong quá trình lưu thông và sử dụng thuốc BVTV, nếu sử dụng không đúng và thiếu biện pháp phòng ngừa, thuốc sẽ gây những tác hại không nhỏ cho môi sinh và môi trường. Một thực tế đang tồn tại gây khó khăn cho việc quản lý thuốc BVTV ở nước ta là có quá nhiều tên thương mại của các loại thuốc trong khi nhiều loại không còn được sử dụng. Theo ông Trương Quốc Tùng, Hội Khoa học kỹ thuật BVTV Việt Nam hiện nay, trong danh mục của chúng ta có hơn 1.200 hoạt chất để chế tạo thuốc BVTV trong khi các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia chỉ có từ 400 - 600 hoạt chất. Trong đó, có những hoạt chất có hàng trăm tên thương mại, giống như "ma trận” đánh lừa người dân. Chẳng hạn, hoạt chất Abamectin có tới 188 tên thương mại. Cùng với đó, trong cơ cấu thuốc BVTV, các loại thuốc có độ an toàn còn chiếm tỷ lệ thấp. Cụ thể, thuốc BVTV sinh học chỉ chiếm dưới 20%, loại thuốc có thời gian cách li dưới 7 ngày cũng chỉ chiếm khoảng 13. Trong những thập niên cuối của Thế kỷ 20 và những năm đầu của Thế kỷ 21, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trí tuệ con người làm cho nền sản xuất tăng nhanh, nhưng môi trường đất, nước và không khí bị ô nhiễm nặng. Ở Việt Nam vào những năm cuối của thập kỷ 80, số lượng số lượng thuốc BVTV sử dụng là 10.000 tấn/ năm, nhưng bước sang những năm của thập kỷ 90, số lượng thuốc BVTV đã tăng lên gấp đôi 21.400tấn/năm vào năm 1992, thậm trí tăng gấp ba 30.000 tấn/năm vào năm 1995 và diện tích đất canh tác có sử dụng thuốc BVTV đã tăng lên 80-90%. Trong số đó, thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ 68,33-82,20% trong tổng số lượng thuốc BVTV đã sử dụng. Thuốc trừ sâu cỏ chiếm tỷ lệ 3,30 - 11,90%. Các nhóm thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và các thuốc khác hiện được sử dụng với số lượng ngày càng tăng. Hiện nay đã có nhiều những tiến bộ trong công tác quản lý cung ứng, sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt là từ khi Luật Bảo vệ môi trường thực thi vào tháng 4-1994. Các nhà sản xuất hóa chất BVTV đã đưa ra thị trường các sản phẩm đa dạng về chủng loại mẫu mã và được bao gói pha chế sẵn rất thuận lợi cho người sử dụng. Theo đó, hiện có 900 loại hóa chất BVTV thương mại và hơn 300 hoạt chất BVTV phân theo hoạt tính lưu hành trên thị trường Việt Nam với mạng lưới cung ứng đa dạng. Mặt khác, hiểu biết của người dân về sử dụng thuốc BVTV cũng tăng lên đáng kể. Từ đó đặt ra trách nhiệm của các nhà quản lý, sản xuất và cung ứng. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa người dân vẫn chưa hiểu biết hết về sự nguy hiểm của thuốc BVTV, vẫn sử dụng thuốc và phân bón hóa học, các hoạt chất quá mức cần thiết và không đúng quy cách nên đất canh tác ngày càng bao ve thuc vat an giang len san xấu đi, dư lượng các phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, diệt cỏ ngấm xuống tầng nước ngầm làm ô nhiễm các nguồn nước. Những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu, các dự án với dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại được triển khai để xử lý chúng và đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo vệ môi trường, tuy nhiên do tính chất phức tạp của việc quản lý, xử lý các loại hóa chất này đã và đang trở thành thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Trước những tác hại tiềm tàng của các loại thuốc BVTV với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời để đáp ứng những yêu cầu về bảo vệ môi trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 184/2006/QĐ-TTg ngày 10 - 8- 2006 phê duyệt Kế hoạch quốc gia thực hiện Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy. Có thể nói, chúng ta đã có một hệ thống các quy định về quản lý thuốc BVTV. Tuy nhiên, trước thực tế đáng báo động do tác hại của thuốc BVTV gây ra, đã đến lúc cần xây dựng các quy định đồng bộ về quản lý tác hại của thuốc BVTV tới môi trường trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Nguyễn Sáng - Thanh Tùng. Các biện pháp sơ cứu Cần đọc kỹ nhãn về phòng chống độc. Bình tĩnh đưa nạn nhân ra xa nơi nhiễm thuốc, cởi đồ nhiễm thuốc và rửa sạch vùng da nhiễm thuốc. Gây nôn, nếu nạn nhân còn tỉnh táo và nhãn thuốc cho phép. Đặt nạn nhân nằm ổn định, giữ ấm nếu thấy lạnh. Trường hợp nạn nhân nóng quá, cần lau bằng khăn lạnh. Theo dõi nhịp thở, nếu ngừng thở thì làm hô hấp nhân tạo, phải kiên trì đến khi nạn nhân thở lại bình thường. Không cho uống sữa vì sữa làm thuốc thấm nhanh vào ruột, chỉ cho uống nước đun sôi để nguội hoặc nước trà đường loãng. Tuyệt đối không cho người bị nhiễm độc hút thuốc, uống rượu. Đưa nạn nhân đến nơi cấp cứu gần nhất và phải mang theo nhãn thuốc để nhân viên y tế biết loại thuốc BVTV nào để chẩn đoán, điều trị kịp thời. Thống kê của cơ quan chức năng, hiện Lạng Sơn có khoảng 36 loại thuốc BVTV, Lào Cai có khoảng 18 loại thuốc BVTV cực độc, không được phép sử dụng đã nhập lậu qua biên giới và đang được bày bán công khai. Trong đó, có những loại Việt Nam đã cấm sử dụng từ những năm 1980 như: Thuốc trừ sâu 666, thuốc trừ cỏ 2.4.5 T Brochtox, Decamine, Veon.... Còn theo Tổng cục Hải quan, hiện nay các mặt hàng thuốc BVTV được nhập lậu vào Việt Nam ngày càng tinh vi và rất khó phát hiện, vì phần lớn các đối tượng buôn lậu thuê bà con khu vực biên giới vận chuyển thuốc BVTV số lượng ít, đi đường mòn, đường tắt. Trên 80% số thuốc BVTV trôi nổi hiện nay đã nhập lậu theo dạng này. P.N.L .
II. Hợp quy thức ăn thủy sản Cục Bảo vệ thực vật cũng đã làm việc với cơ quan kiểm dịch thực vật của Mỹ để tăng cường các biện pháp kiểm soát ngay tại nước xuất khẩu
Trước khi được phép nhập khẩu vào Việt Nam, nghiên cứu để có những bổ sung cần thiết vào quá trình kiểm tra. Hàng trong nước giá bình dân thì thường lại không được ưa chuộng, đây là thông tin được đưa ra tại buổi họp hàng tháng về vệ sinh an toàn thực phẩm và vật tư nông nghiệp diễn ra sáng 5-11 tại Hà Nội. Một số Điều trong dự thảo luật khó khả thi như quy định kho thuốc bảo vệ thực vật phải bảo đảm cự ly cách trường học tại Khoản B, mỗi dãy hàng chục căn phòng nhỏ đã xập xệ sắp đổ. Thanh tra chuyên ngành đã lập 1.328 biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật tăng 356 vụ so với năm 2010, có hai ngăn và nắp đậy nên dễ sửa chữa và di chuyển..Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. Sản phẩm Vidan bị phát hiện hàng loạt sai phạm. Ảnh: N.Ánh. Theo báo cáo, hầu hết thuốc BVTV sử dụng ở Việt Nam đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc với mỗi năm hơn 70.000 tấn thành phẩm, giá trị tương đương 210 - 500 triệu USD. Qua kiểm tra có khoảng 0,6-0,8% các lô hàng không đạt chất lượng, buộc phải tái xuất hoặc tái chế. Riêng kiểm tra chất lượng thuốc BVTV tại các cơ sở sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói và lưu thông trên thị trường đã phát hiện mẫu không đạt chất lượng chiếm từ 3-10,2% số mẫu kiểm tra. Đáng báo động là tình trạng buôn lậu thuốc BVTV qua đường tiểu ngạch hiện gia tăng, khó kiểm soát, nguy cơ nhất là thuốc nằm trong danh mục cấm sử dụng như thuốc trừ cỏ Butachlor, thuốc trừ sâu Methamidoph, thuốc diệt chuột các loại, đồng thời việc sử dụng dùng thuốc BVTV cũng có xu hướng lạm dụng quá mức, trong khi khâu quản lý còn rất nhiều bất cập, lỏng lẻo. Q.S. - Tình trạng hàng giả mạo các loại phân bón, hóa chất bất hợp pháp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, ô nhiễm môi trường và đặc biệt là gây thiệt hại nghiêm trọng đối với xuất khẩu nông sản.Ông D’Arcy Quinn, đại diện CropLife cho biết, tại Việt Nam, tình trạng thuốc giả, thuốc nhái đã xảy ra đối với các sản phẩm đang được bán chạy thuộc CropLife. Vì vậy rất cần thành lập nhóm công tác chuyên chống hàng giả mạo để có các biện pháp mạnh đối với việc sản xuất và vận chuyển thuốc giả, thuốc bất hợp pháp. Xúc Bao ve thuc vat tiến hình thành khung pháp lý nhằm chống lại các hoạt động liên quan đến hàng giả mạo.Sĩ Dũng .
Cơ quan chức năng đã tạm giữ 70 chai Bioncin 8000 SC loại 100 ml, 100 chai thuốc trừ sâu Sagomycin 20 FC loại 100 ml, 92 chai Callilex 50SC loại 100 ml, 27 chai rầy Bascgde 50 EC loại 240 ml, 25 chai Hinosan 30EC loại 100 ml, 200 gói thuốc trừ cỏ và Oesta...Toàn bộ số hàng trên đã được tổ công tác niêm phong để làm thủ tục tiêu hủy theo quy định. Đây là hoạt động nhằm thúc đẩy thực hiện Công ước Rotterdam về thủ tục thỏa thuận thông báo trước đối với một số hóa chất và thuốc BVTV nguy hại trong thương mại quốc tế. Hội thảo diễn ra trong 5 ngày từ ngày 7 đến 11-6, đại diện một số tổ chức quốc tế, quốc gia tập trung bàn nhiều nội dung quan trọng như nâng cao nhận thức về cách áp dụng Quy trình thỏa thuận có báo trước, điều khoản trao đổi thông tin để đẩy mạnh công tác quản lý chất hóa học; tăng cường quan hệ hợp tác liên bộ thúc đẩy phương pháp tiếp cận tổng hợp đối với công tác quản lý chất hóa học cấp quốc gia; xây dựng chiến lược quốc gia về thực hiện Công ước Rotterdam... Theo đó, giao cho Ban Chỉ đạo 127 tỉnh TT bao ve thuc vat an giang len san - Huế phối hợp với Sở NN-PTNT lập kế hoạch, phương án triển khai kiểm tra cụ thể theo yêu cầu. Mô hình cánh đồng mẫu lớn là hình thức tổ chức sản xuất theo hợp đồng với tên gọi Chương trình đầu tư, thu mua, chế biến lúa gạo”. Theo đó, Công ty đầu tư cho nông dân giống, thuốc BVTV, phân bón các loại vào từng thời điểm sử dụng, không tính lãi trong 120 ngày, kể từ đầu vụ đến sau thu hoạch 30 ngày. Đồng thời, lực lượng khuyến nông của công ty hướng dẫn nông dân thực hiện quy trình kỹ thuật canh tác hiệu quả – bền vững, ghi nhật ký đồng ruộng, xử lý dịch hại và các vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất - sinh học trên đồng ruộng, lên lịch thu hoạch, vận chuyển lúa về nhà máy. Công ty cung cấp cho nông dân bao chứa lúa, sấy lúa miễn phí, mua lúa của nông dân ngay tại nhà máy theo giá được niêm yết. Giá này bảo đảm lợi ích của công ty và của nông dân. Công ty bao chi phí bốc xếp tại ruộng, vận chuyển lúa từ ruộng đến nhà máy; nếu chưa muốn bán ngay, nông dân có thể vào gửi lúa vào kho của nhà máy, miễn phí bảo quản trong 30 ngày. Nông dân sẽ đăng ký giá bán, khi giá niêm yết của nhà máy bằng giá đăng ký bán của nông dân, công ty sẽ thanh toán tiền cho nông dân.. Phấp phỏng như ngồi trên ngọn cây Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. Theo người dân xóm Vũ Kỳ xã Đồng Thành, huyện Yên Thành, thời chiến tranh, tại xóm này có một nhà kho của quân đội. Vì vùng này nhiều mối mọt, kiến... Nên bộ đội phải dùng thuốc BVTV chôn xung quanh để phòng tránh. Sau chiến tranh, bộ đội rút đi nhưng tồn dư thuốc BVTV chưa xử lý được triệt để. Cứ mỗi đợt nắng lâu ngày, mưa xuống là xung quanh khu vực kho nước nổi màu váng đục, mùi khó chịu bốc lên. Từ những năm 1990 - 1995, rồi đến 2004 - 2005 tại 2 xóm Vũ Kỳ và Hồng Kỳ liên tục có người chết vì ung thư vòm họng, dạ dày... Khiến người dân hoang mang. Ngay cả vỏ quả xoài dai là rứa mà trồng trong khu vực ni, cứ to ra là bị nứt...” - ông Nguyễn Văn Truyền - nhà ngay cạnh điểm kho thuốc cũ cho biết. Hiện nay nhà ông đã có nước sạch để dùng, nhưng trước đây, giếng nước có mùi hăng hăng nhưng gia đình vẫn phải sử dụng. Bà Đôn - vợ ông Truyền đã bị mắc một số bệnh như gan, thận, phổi... Ông Thái Văn Thành - Chủ tịch UBND xã Đồng Thành cho biết, ngay khi nhận được kiến nghị của xã về thực trạng tại nhà kho cũ, Bộ Quốc phòng đã cho đơn vị chức năng về kiểm tra, xử lý. Một hệ thống nước sạch dùng riêng cho 350 hộ dân tại 2 xóm Vũ Kỳ và Hồng Kỳ đã được đưa vào sử dụng. Tại xóm 15 xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu kho thuốc BVTV nơi đây vẫn còn khá nguyên vẹn. Ông Nguyễn Đức Châu - Phó Chủ tịch UBND xã cho biết, ngoài 1 điểm ở đây thì còn 2 điểm nữa nằm trong khu dân cư tại xóm 6. Trước đây, có một con mương được làm phía dưới kho tại xóm 15 để khi mưa xuống thuốc theo nước chảy đi. Nhưng phương án này không hiệu quả vì mỗi khi mưa to, mương tràn nước thuốc lại lan ra ngoài. Trong khi đó, điểm kho thuốc BVTV tại xóm 4 xã Nam Lĩnh, huyện Nam Đàn đã được xử lý, nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả. Chị Nguyễn Thị Phương - nhà ngay bên cạnh khu đất có kho thuốc cho hay: Sau khi xử lý, mấy anh nớ nhờ tui trông nom rau khoai trồng thử nghiệm trên đó. Nhưng khi rau đang lên xanh thì bất ngờ úa vàng rồi rụi chết”. Con trai chị Phương là cháu Đinh Xuân Chiến và cháu ngoại Nguyễn Khánh Linh ở cùng nhà bà Phương bị ung thư qua đời. Cạnh đó, ông Nguyễn Hữu Duân cũng đã mất vì ung thư. Trước đây, khu vực kho thuốc được người dân đào lên định thả cá thì phát hiện những bánh” thuốc như bánh xà phòng, thả cá xuống thì cá chết. Thiếu kinh phí và công nghệ xử lý Bà Nguyễn Thị Đào - Chi cục phó Chi cục BVTV Nghệ An cho biết, theo điều tra khảo sát và đánh giá sơ bộ của đơn vị này thì địa bàn Nghệ An có 913 điểm tồn dư thuốc BVTV. Số điểm tồn dư này phân bố ở 446 xã trên địa bàn, tập trung ở vùng đồng bằng và trung du. Các kho thuốc này chủ yếu dùng trong nông nghiệp với hệ thống các hợp tác xã trước đây, nông - lâm trường, các xã - đội...; tiếp đó là một phần ở các kho của quân đội, y tế dùng để chống mối mọt, côn trùng,... Thực trạng tồn dư thuốc BVTV có nhiều nguyên nhân. Trước đây, chúng ta dùng thuốc BVTV chỉ quan tâm đến vấn đề sử dụng, chưa quan tâm đến vấn đề môi trường. Nhiều nơi xảy ra tình trạng, khi bàn giao chúng ta chỉ chuyển giao bộ máy nhân sự, còn kho thuốc thì bỏ quên. Chính vì vậy người dân đã tự lấy thuốc về sử dụng riêng, một số nơi chính quyền còn cho dân xây dựng nhà trên nền kho thuốc cũ. Nhận thức của người dân trước đây còn xem nhẹ tác hại của thuốc BVTV. Việc xử lý các điểm tồn dư thuốc BVTV đang là vấn đề đau đầu” của các cơ quan liên quan. Thực tế, trong số 913 điểm tại Nghệ An, Chi cục BVTV cũng mới chỉ sơ bộ khảo sát đánh giá được trên 277 điểm, số còn lại chưa thực hiện được vì thiếu kinh phí. Chỉ tính riêng việc lấy mẫu phân tích đã phải chi nguồn kinh phí khá lớn. Thông thường, mỗi điểm khảo sát sẽ được lấy mẫu từ 10 - 20 vị trí, mỗi vị trí lại phải lấy tại 2 - 3 tầng đất, rồi nước... Nếu giá 1 mẫu phân tích năm 2008 khoảng 1,5 triệu đồng thì từ năm 2012 đã lên trên 3 triệu đồng. Ngoài vấn đề kinh phí là vấn đề chuyên môn. Cơ bản, việc xử lý theo 2 hình thức chôn lấp tích cực và xử lý hóa chất. Nhưng dù có biện pháp gì thì cũng không thể xử lý nửa chừng. Phải có các trung tâm kiểm định độc lập để kiểm tra, đánh giá. Nếu ít kinh phí, thì việc làm đầu tiên là phải xây dựng được nguồn nước sạch để sử dụng, nơi nặng có thể di dời dân cách xa vị trí kho” - bà Đào cho biết. Ông Chu Thế Huyền - Phó Giám đốc Sở TN-MT Nghệ An cho rằng, khó nhất trong vấn đề xử lý tồn dư thuốc BVTV là công nghệ và kinh phí. Mặc dù chưa có tính toán cụ thể, nhưng để xử lý các điểm tồn dư thuốc trên địa bàn Nghệ An phải tốn hàng ngàn tỷ đồng. Hiện Sở TN-MT đang tiến hành điều tra, khảo sát, lập hồ sơ trình các cấp có thẩm quyền ở trung ương để có hướng giải quyết. Duy Cường. Quang cảnh Hội nghị về tái cơ cấu ngành trồng trọt - Ảnh: Thùy Dung. Quang cảnh Hội nghị về tái cơ cấu ngành trồng trọt - Ảnh: Thùy Dung. Thuốc BVTV giả tăng mạnh Luật sư Phùng Thị Mai Vân - Phó chánh thanh tra Cục BVTV cho biết, hằng năm Cục BVTV tiến hành thanh tra, kiểm tra hầu như tất cả các cơ sở sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói bảo vệ thực vật thuốc BTVT và khoảng 15.000 cơ sở buôn bán thuốc BVTV và phát hiện số cơ sở vi phạm chiếm 12 - 14%. Trong số cơ sở vi phạm có đến 35 - 40% là các lỗi vi phạm về sản xuất, buôn bán thuốc BVTV bất hợp pháp gồm: Kinh doanh thuốc cấm, thuốc giả, thuốc ngoài danh mục, thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng, vi phạm nhãn mác...Bà Vân nhận định hiện tượng buôn bán thuốc BVTV giả có chiều hướng tăng trong năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011. Trong năm 2010, đã thanh tra, kiểm tra và phát hiện 2.388 cửa hàng vi phạm chiếm 14,5% về các hành vi kinh doanh thuốc cấm, thuốc giả, sản xuất thuốc vi phạm nhãn... Trong 6 tháng đầu năm 2011 cũng đã phát hiện 805 cửa hàng vi phạm sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV và xảy ra chủ yếu ở phía nam. Việc sản xuất kinh doanh thuốc có nội dung nhãn thuốc không đúng quy định chiếm hơn 20% số vụ vi phạm, chủ yếu giả các thuốc Chess, Oshin, Beam, Anvil tại Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Tây Ninh. Trong 6 tháng đầu năm 2011, tình hình sản xuất, buôn bán thuốc BVTV giả ngày càng nghiêm trọng, chủng loại và khối lượng hàng hóa vi phạm ngày càng gia tăng, thuốc giả được sản xuất với quy mô cao, có tổ chức, hàng hóa khá tinh vi với bao gói mẫu mã giống hàng thật như thuốc Nativo 750 WG, Oshin 20 WP, Chess 50 WG..., có cả tem chống hàng giả như thuốc Beam 75 WP rất khó phân biệt. Thậm chí, có người tiếp thị đến đại lý, cửa hàng, giao hàng với số lượng nhiều, có khuyến mãi thuốc Progibb 10SP. Hằng năm, thanh tra chuyên ngành BV&KDTV đã tiến hành từ 500 -600 đợt kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính từ 2.000 – 3.000 trường hợp. Cần sự phối hợp từ nhiều phía Ông D’Arcy Quinn – chuyên gia lĩnh vực chống hàng giả CropLife – đánh giá sản phẩm thuốc BVTV bất hợp pháp không chỉ làm hại nông dân mà còn ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng thực phẩm và môi trường, nguy hại tới xuất khẩu nông nghiệp của VN vì các nhà nhập khẩu quốc tế sẽ không mua sản phẩm nông nghiệp nếu sử dụng hóa chất bất hợp pháp. Để giải quyết vấn đề thuốc BVTV bất hợp pháp thì phải triệt nọc” từ ngay biên giới, khi chưa đưa vào thị trường VN, dưới sự giám sát kỹ lưỡng của cảnh sát, hải quan... Sẽ thu giữ được số lượng sản phẩm bất hợp pháp, nếu để những sản phẩm này tràn vào thị trường mới kiểm tra, xử lý thì chỉ như thả gà ra đuổi”. PGS-TS Bùi Bá Bổng – Thứ trưởng Bộ NNPTNT cho rằng, thị trường thuốc BVTV hiện nay còn xen lẫn rất nhiều thuốc BVTV bất hợp pháp, thuốc giả mạo. Tình trạng xen lẫn nghiêm trọng này còn có nhiều vật tư nông nghiệp bất hợp pháp, kém chất lượng khác, làm ảnh hưởng tới tăng trưởng trong ngành nông nghiệp, giảm thu nhập của nông dân và tàn phá môi trường sinh thái. Trước tình trạng này, bộ cung đã có nhiều văn bản quy định xử phạt mạnh mẽ đối với các đối tượng buôn bán vật tư nông nghiệp giả mạo này. Tuy nhiên, rất cần có sự hợp sức của cộng đồng, sự hỗ trợ của xã hội nhằm vận động người nông dân, doanh nghiệp nâng cao ý thức tránh được việc sử dụng thuốc BVTV giả, bất hợp pháp.Hà Anh Chiến .
III. ,Công bố hợp quy thép Cục Bảo vệ thực vật đã bổ sung aldicarb vào danh mục các hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật bắt buộc phải kiểm tra an toàn thực phẩm đối với gừng và các loại củ nhập từ nước ngoài vào Việt Nam
Bạn đọc Nguyễn Thu Hà Nội: Đáng lo ngại là hiện nay, tại nhiều ruộng rau ở Thanh Trì Hà Nội được chăm bón bằng nước sông Tô Lịch, không chỉ bị ô nhiễm vi sinh vật mà còn bị nhiễm các loại hóa chất độc hại. Tình trạng lạm dụng thuốc BVTV cũng diễn ra phổ biến tại các vùng nông thôn. Lẽ ra phải bảo đảm đủ số ngày sau khi phun thuốc mới được thu hoạch thì ngược lại, nhiều chủ rau lại tranh thủ bán ngay để rau được đẹp mã. Nhìn những mớ rau xanh mơn mởn sau khi thu hoạch, khó ai có thể ngờ rằng, trong đó được nuôi trồng và chăm sóc bởi một quy trình rất mất vệ sinh.Bạn đọc Vĩnh Linh Hưng Yên: Ai cũng biết, sử dụng thuốc BVTV không đúng cách sẽ gây hại cho môi trường và sức khỏe con người qua nhiều đường khác nhau như ngấm vào nguồn nước, không khí, nhiễm vào thức ăn, đồ uống và vào cơ thể con người... Thế nhưng, do thiếu hiểu biết, phần lớn nông dân bơm thuốc BVTV không mang đồ bảo hộ lao động, để thuốc chảy qua bình ngấm ướt da. Nhiều người sử dụng thuốc BVTV không đọc các thông tin trên nhãn mác. Bơm thuốc xong, không ít người xúc rửa bình ngay trên các sông, mương, vứt bỏ bừa bãi bao bì, vỏ chai thuốc trừ sâu trên đồng ruộng, gây nguy hiểm cho việc đi lại, sản xuất mà cũng là tác nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường.Bạn đọc Tấn Phát Bà Rịa - Vũng Tàu: Hiện nay, nhiều nông dân khi mua thuốc trừ sâu, không quan tâm thời hạn sử dụng, thậm chí không cần biết tên công ty sản xuất. Mặc dù ở một số địa phương đã tổ chức cho nông dân tham gia các lớp tập huấn sử dụng thuốc BVTV an toàn, hiệu quả, nhưng không ít người vẫn chủ quan, sử dụng thuốc BVTV bừa bãi, dẫn đến ngộ độc. Để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người, các cấp chính quyền và ngành chức năng cần tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn nông dân cách bảo quản và sử dụng thuốc BVTV, hình thành những cánh đồng lúa sạch, rau sạch bằng cách ứng dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp. Mặt khác, tăng cường việc diệt sâu, rầy bằng biện pháp thủ công, bảo vệ bao ve thuc vat an gian thiên địch, giữ gìn cân bằng sinh thái. Các nước đủ điều kiện đưa vào danh sách xuất khẩu thực phẩm vào VN phải cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến thực phẩm đó. Mướp đắng, một trong 5 loại mặt hàng đang bị ngưng xuất sang EU. Trong cả nước hiện có 260 kho chứa thuốc BVTV, chủ yếu lưu giữ các loại thuốc BVTV đã hết hạn sử dụng qua công tác thu giữ, thanh tra. Nhưng toàn bộ số thuốc độc hại này chưa được tiêu hủy theo đúng qui định, việc lưu giữ bảo quản chưa được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do. Khảo sát thực tế thì các kho chứa hóa chất này tồn lưu hầu hết hệ thống thoát nước gần như không có nên khi mưa lớn tạo thành dòng nước mặt, gây ô nhiễm nước ngầm, nước mặt, ô nhiễm đất xung quanh và gây nguy hiểm cho người dân sống quanh khu vực.. Đó là kiến nghị đáng chú ý tại hội thảo lấy ý kiến đóng góp dự án luật này do Đoàn đại biểu QH TP.HCM tổ chức chiều 9-9. Ông Thái Thành Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV TP.HCM, cho biết không ít người trồng trọt vứt bừa bãi bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng khiến môi trường bị ảnh hưởng, lại dễ gây tai nạn cho người. Từ năm 2010 đến nay, Chi cục BVTV TP đặt nhiều dụng cụ chứa bao bì thuốc BVTV dọc các khu vực trồng lúa, rau để người trồng trọt bỏ vào. Đến nay, chi cục đã thu gom khoảng 20 tấn bao bì thuốc BVTV và đang trình UBND TP kế hoạch tiêu hủy. Kinh phí tiêu hủy do Nhà nước gánh chịu với số tiền không nhỏ. Hơn nữa, lượng bao bì thuốc BVTV thu gom không nhiều so với lượng thuốc người trồng trọt đã sử dụng” – ông Tâm nói. Theo Trần Ngọc/Pháp luật TP. HCM, 10/09/2013 Các bài cùng chủ đề: WHO kêu gọi ngăn chặn sự can thiệp của ngành công nghiệp thuốc lá Phát hiện doanh nghiệp nước ngoài xả thải ra môi trường Thuốc trừ sâu sinh học – Một giải pháp cho nông nghiệp bền vững Các doanh nghiệp di dời khỏi KCN Biên Hòa 1 được ưu tiên hỗ trợ Nhiều doanh nghiệp quên” xử lý nước thải Doanh nghiệp chung tay ứng phó biến đổi khí hậu Quy định sử dụng doanh thu phí bảo hiểm nông nghiệp Doanh nghiệp tư nhân cần quan tâm hơn đến môi trường Tập huấn tiết kiệm năng lượng cho các doanh nghiệp Doanh nghiệp nào cũng vi phạm. Theo bà Nguyễn Thị Thơm, Ban Xã hội Dân số Gia đình Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, hiện nay, có 67,3% lao động nông nghiệp không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân khi tiếp xúc với thuốc BVTV, khoảng 80% số người lao động vứt vỏ chai, bao chứa thuốc BVTV ngoài đồng ruộng. Lượng thuốc BVTV sử dụng trên một đơn vị diện tích đất canh tác vượt mức khuyến cáo 2,81 lần ở đồng bằng sông Hồng và 3,71 lần ở đồng bằng sông Cửu Long. Con số thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cho thấy, chỉ tính riêng năm 2008, cả nước đã có 6.807 vụ nhiễm độc thuốc BVTV với 7.572 trường hợp, tử vong 137 trường hợp cao hơn so với năm trước 1,4 lần. Đáng báo động là con số trên mới chỉ thống kê được khi nạn nhân của các vụ ngộ độc phải vào viện điều trị, còn các trường hợp nhiễm độc từ từ và không phải nhập viện thì không thể thống kê hết. Còn theo kết quả điều tra của Đại học Quốc gia Hà Nội, cả nước hiện nay có khoảng 15-29 triệu người thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV, nguy hại hơn, 70% trong số này có triệu chứng ngộ độc. Một lãnh đạo Vụ Y tế dự phòng Bộ Y tế cho biết, ngộ độc thuốc BVTV là một trong mười nguyên nhân gây tử vong cao nhất tại các bệnh viện, chỉ sau cao huyết áp, phổi và tai nạn giao thông. Nhiễm độc thuốc BVTV là nguy cơ người nông dân phải đối mặt hàng ngày. Không chỉ có nguy cơ cao nhiễm độc các loại hóa chất, thuốc BVTV, nông dân còn chiếm tỷ lệ tai nạn lao động cao. Phần lớn máy móc, thiết bị nông nghiệp đưa vào sử dụng thiếu các bộ phận che chắn an toàn, đa số người lao động chưa hiểu rõ và chưa nắm được các nguyên tắc về an toàn trong sử dụng điện và an toàn trong sử dụng máy móc nông nghiệp. Tai nạn lao động trong sử dụng điện và máy móc nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao: tần suất tai nạn hiện nay là 7,99 tức là cứ 100.000 người lao động thì có 799 lượt người bị tai nạn lao động, tần suất trong sử dụng máy móc thiết bị nông nghiệp là 8,56 tức là cứ 100.000 người lao động thì có 856 trường hợp bị tai nạn lao động. Riêng trong các trang trại đã có 22,6% số người bị tai nạn, trong đó 6,2% bị máy cán, kẹp.Những con số trên cho thấy mức độ nghiêm trọng trong vấn đề an toàn lao động cho nông dân. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này lại là do trình độ, nhận thức của người nông dân về vấn đề an toàn vệ sinh lao động còn thấp. Phần lớn người nông dân khi sử dụng thuốc BVTV không hiểu hết được mức độ nguy hiểm, độc hại của thuốc gây ra nếu như không dùng đúng cách, đúng liều lượng quy định… Bà Thơm nhận định, thói quen tâm lý, giản đơn trong lao động đã hạn chế người nông dân tiếp xúc với những kiến thức lao động chuyên môn và kiến thức về an toàn vệ sinh lao động. Một ví dụ khá điển hình là khi phun thuốc trừ sâu, nếu đúng quy cách, người nông dân phải sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động như khẩu trang, găng tay, ủng… Nhưng nhiều người cho rằng, sử dụng những phương tiện đó chỉ thêm vướng và khó làm việc… Lao động nông nghiệp hầu hết chưa qua đào tạo nghề, họ thường làm việc theo yếu tố tự phát và dựa vào kinh nghiệm. Đây cũng là những thiệt thòi của người nông dân. Thực trạng đã đến mức báo động, nguyên nhân cũng đã rõ nhưng để thay đổi, thói quen lao động của người nông dân lại không dễ dàng. Theo TS. Đinh Hạnh Thưng, Trưởng ban Khoa học Công nghệ, Hội An toàn vệ sinh lao động Việt Nam, cần tăng cường biện pháp tổ chức quản lý, thanh kiểm tra an toàn vệ sinh lao động đối với nông nghiệp và nông dân. Đồng thời, phải tiến hành bổ sung chính sách an toàn vệ sinh lao động cho nông dân; bổ sung về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và UBND các cấp trong công tác an toàn vệ sinh lao động đối với nông nghiệp và nông dân; ban hành thông tư hướng dẫn về công tác an toàn vệ sinh lao động cho nông dân... Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là phải tuyên truyền kịp thời để người dân nhận thức đúng và đầy đủ về mức độ nguy hiểm, mất an toàn trong lao động nông nghiệp. Trong cuộc tiếp xúc cử tri của đoàn đại biểu HĐND Hà Nội vừa qua, cử tri cũng bày tỏ nỗi bức xúc về rau ngót tắm thuốc sâu”. Có dạo, cả Hà Nội bàng hoàng vì bánh phở tẩm phooc môn”. Có lẽ đây là lần đầu tiên thông tin về mất an toàn vệ sinh thực phẩm bị phanh phui trên báo chí nên người ta cảm thấy rất sốc. Tiếp đó là các vụ việc nước tương chứa chất gây ung thư, thực phẩm chứa hàn the, hoa quả nhập lậu từ Trung Quốc chứa dư lượng hóa chất vượt mức tối đa cho phép... Liên tiếp làm rúng động dư luận. Thời buổi kinh tế thị trường”, việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất chế biến thực phẩm trở nên phổ biến. Phổ biến đến mức được cho là đương nhiên. Phẩm màu, đường hóa học bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn. Người trồng trọt sẵn sàng sử dụng thuốc trừ sâu, hóa chất kích thích tăng trưởng, thuốc diệt cỏ...đối với cây trồng, gây ô nhiễm nguồn nước và tồn dư hóa chất độc hại trong rau củ quả. Người chăn nuôi không ngại ngần sử dụng hooc môn tạo nạc, hooc môn siêu tăng trọng, chất kích thích lớn và các chất độc hại khác cho vật nuôi nhằm thu được lợi nhuận nhanh nhất. Theo các chuyên gia, sử dụng thực phẩm không đảm bảo vệ sinh trước hết có thể bị ngộ độc cấp tính nhưng nguy hiểm hơn là về lâu dài, sự tích lũy dần các chất độc hại trong cơ thể làm rối loạn quá trình chuyển hóa các chất, gây ra các bệnh nguy hiểm như ung thư hay tim mạch, thậm chí gây các dị tật dị dạng cho thế hệ mai sau. Bữa ăn của người dân bây giờ được ít nhất là 3 Bộ quản lý, gồm Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Một cách nôm na, có thể hình dung như sau: Khi thực phẩm ngũ cốc, thịt, thủy sản, trứng, sữa, rau củ quả, mật ong, thực phẩm biến đổi gen… đang còn trong quá trình sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thu gom giết mổ, sơ chế, bảo quản, vận chuyển… thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý. Bộ Công thương quy định các điều kiện kinh doanh tại các chợ, siêu thị; quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, chế biến bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại rượu bia, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật…. Bộ Y tế giữ vai trò chủ trì trong quy hoạch tổng thể về an toàn thực phẩm; quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, sơ chế, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu nhập khẩu, kinh doanh đối với phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, nước uống đóng chai, nước khoáng thiên nhiên, thực phẩm chức năng và các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ…. Cùng một lĩnh vực ăn uống” nhưng nhiều Bộ quản”, thành thử xảy ra chuyện quản lý chồng chéo mà cuối cùng không rõ trách nhiệm chính thuộc về ai. Con đường thực phẩm an toàn đi từ trang trại đến mâm cơm” vẫn còn đầy trắc trở. Dường như bất lực, không kiểm soát nổi nạn thực phẩm bẩn, các nhà quản lý đành kêu gọi mỗi người dân hãy tự biến mình thành người tiêu dùng thông thái”, biết mua gì, ăn gì...Nhưng như vậy chẳng khác nào bỏ mặc người dân bơ vơ, tự xoay xở giữa mê hồn trận” thực phẩm sạch bẩn lẫn lộn? Nếu mà như thế thì nguy hiểm quá. Nguy hiểm không chỉ đối với thế hệ hôm nay. Phùng Thu Nguyệt. Thùy Dung Quang cảnh Hội nghị về tái cơ cấu ngành trồng trọt - Ảnh: Thùy Dung Tại Hội nghị Tái cơ cấu ngành trồng trọt diễn ra hôm nay ngày 23-9 tại Hà Nội, ông Phạm Đồng Quảng, Phó cục trưởng Cục trồng trọt, Bộ NNPTNT, nhận xét nguyên nhân chính của việc lạm dụng thuốc BVTV là do nhận thức, hiểu biết hạn chế của người sử dụng thuốc; quản lý nhà nước còn nhiều bất cập và tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún khiến công tác quản lý sử dụng thuốc cũng như tập huấn tuyên truyền các giải pháp kỹ thuật thay thế việc sử dụng hóa chất BVTV cho người sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Ở nước ta hiện ước tính có khoảng trên 10 triệu người sử dụng thuốc BVTV. Bình quân mỗi cán bộ BVTV phải kiểm tra, giám sát hướng dẫn cho khoảng trên 3.000 người sử dụng thuốc. Với lực lượng cán bộ kỹ thuật mỏng như vậy, người phun thuốc rất ít có cơ hội tiếp cận để được tư vấn, hướng dẫn”, ông Quảng nói. Trong khi đó, thuốc BVTV lại được buôn bán rộng khắp đến tận thôn ấp, nông dân chủ yếu dựa vào kê đơn” của người bán thuốc để quyết định việc sử dụng. Vì lợi nhuận, người bán thuốc thường tư vấn để bán được nhiều thuốc, dẫn tới tình trạng sử dụng quá mức, pha trộn nhiều loại thuốc. Theo ước tính, có tới 80% thuốc BVTV sử dụng sai mục đích, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm và sức khỏe người tiêu dùng. Ông Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục BVTV, nói rằng chỉ bảo vệ thực vật tính trên cây lúa, có khoảng 9,3 triệu nông dân thường xuyên sử dụng thuốc BVTV để phòng trừ sâu bệnh trên ruộng lúa của mình. Nếu có sự liên kết, tổ chức sản xuất, hình thành tổ chức dịch vụ BVTV với trang thiết bị phù hợp thì chỉ cần 4 đến 6 người có thể phòng trừ dịch hại trên diện tích tương đương với 100 người như hiện nay. Khi số người sử dụng thuốc giảm tới 94%, sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý, sử dụng thuốc BVTV hiệu quả hơn nhiều so với hiện nay. Ông Hồng cho hay, để khuyến khích hình thành các tổ chức dịch vụ BVTV, Bộ NNPTNT đang xây dựng Đề án thí điểm phát triển dịch vụ BVTV giai đoạn 2015-2017”, theo đó, nhà nước sẽ hỗ trợ một lần kinh phí thành lập tổ đội dịch vụ BVTV, tập huấn nghiệp vụ về BVTV, mua tài liệu với mức không quá 2 triệu đồng cho mỗi thành viên của tổ dịch vụ; hỗ trợ một lần kinh phí thực tế mua máy phun rải thuốc với mức không quá 3 triệu đồng/10 héc ta ký hợp đồng dịch vụ; hỗ trợ thành viên của tổ dịch vụ BVTV 100% chi phí đóng bảo hiểm. Nếu được thông qua, đề án này sẽ được áp dụng ngay trong năm 2015 .
Ông Phạm Xuân Thăng, đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN. Tuy nhiên, mới đây, Cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản đã gửi thông báo cho Tổng cục Quản lý chất lượng và kiểm dịch động thực vật Trung Quốc đề nghị, Trung Quốc truy xuất nguồn gốc, xác định nguyên nhân và báo cáo kết quả cho Việt Nam. Đây không phải một quy trình bắt buộc trong việc xử lý vi phạm, chỉ là một trong những kênh thông tin nhằm tăng cường sự hợp tác, kiểm soát những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực ATTP. Tuy vậy, đến nay, chúng tôi cũng chưa nhận được văn bản trả lời từ phía Trung Quốc”, ông Nguyễn Xuân Hồng cho hay. Hải Dương. Cục trưởng Cục BVTV Nguyễn Xuân Hồng cung cấp nhiều thông tin liên quan để rộng đường dư luận và trấn an người tiêu dùng.CôngThương - Điều kiện thích hợp – hoàn toàn có thể Theo khẳng định của Cục trưởng Nguyễn Xuân Hồng, quả lê, quả táo giữ được lâu là hoàn toàn có thể xảy ra. Nếu như giống táo, giống lê có thời gian bảo quản dài, cộng với việc đã được sản xuất ở trong một điều kiện không bị nhiễm các vi sinh vật có thể gây hỏng nhanh trái cây và sau khi thu hoạch đã được xử lý bằng các chất bảo quản an toàn, rồi được giữ ở trong các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm phù hợp cho trái cây thì thời gian bảo quản của trái cây hoàn toàn có thể kéo dài được 6 – 10 tháng, thậm chí cả năm. Như vậy, có thể thấy, việc bảo quản trái cây phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và khi mà thấy trái cây giữ được lâu thì chưa nên vội kết luận đó là do các chất bảo quản độc hại”, ông Hồng nhận định. Đối với quả táo, lê mà hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Mỹ, Newzealand và Úc thì hiện trên thế giới hiện có khoảng 7.500 giống táo và gần 6.000 giống lê. Theo lý giải của Cục BVTV: Người ta chia ra các giống lê mà chín sớm thường có thời gian bảo quản ngắn chỉ 15-30 ngày. Đối với những giống lê chín trung bình, thời gian bảo quản từ 3-5 tháng. Nhưng có những giống lê mà chín muộn thì thời gian bảo quản có thể kéo dài 6-10 tháng. Những giống táo và lê chín muộn, có thời gian bảo quản dài thường được dùng để xuất khẩu. Giải thích về cơ chế giữ cho trái cây được tươi lâu mà vẫn giữ được hương vị, màu bảo vệ thực vật sắc, chất lượng, người đứng đầu Cục này cho biết, đây là kết quả của việc sử dụng các chất có khả năng kìm hãm quá trình sản sinh Etylen- một loại hooc môn thực vật được chính trái cây sản sinh ra để làm quả chín. Các chất này được gọi là các chất ức chế Etylen Etylen blockers hoặc là các chất chống ôxy hóa Antioxidants. Nhiều nước hiện nay đã cho phép sử dụng một số hóa chất rất là an toàn như: Dephenyl amin DPA, Ethoxiquyn và 1-MCP 1-metycyclopropene, trong đó chất 1-MCP đang được nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…sử dụng. Khi sử dụng chất này cộng với bảo quản ở điều kiện mát, quả táo có thể giữ được trên 8 tháng và không hề ảnh hưởng đến chất lượng, hương vị, màu sắc", ông Hồng nhấn mạnh. Trên 90% hoa quả nhập khẩu được kiểm tra nghiêm ngặt Liên quan đến việc thực thi các quy định của Luật An toàn thực phẩm, ông Hồng cho biết, với trách nhiệm được Bộ NN&PTNT giao, Cục BVTV đã và đang thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ kiểm tra an toàn thực phẩm các loại hoa quả nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam từ nhiều năm qua. Theo đó, hiện có trên 90% các loại hoa quả nước ngoài nhập vào Việt Nam qua con đường chính ngạch và đều được kiểm tra theo quy định của Thông tư 13 năm 2011 của Bộ NN&PTNT. Tại cửa khẩu, nơi mà lô hàng hoa quả được nhập vào Việt Nam, các đơn vị kiểm dịch thực vật ở cửa khẩu sẽ kiểm tra hồ sơ, nguồn gốc xuất xứ... Sau đó, nếu thấy đạt yêu cầu thì sẽ lấy mẫu để kiểm tra và cho thông quan. Quy trình này đang được áp dụng với những lô hàng kiểm tra thông thường. Còn đối với những lô hàng phải áp dụng phương pháp kiểm tra chặt thì phải chờ có kết quả kiểm tra đạt yêu cầu mới cho thông quan”, ông Hồng cho hay. Theo khẳng định của ông Nguyễn Xuân Hồng, đến nay Cục BVTV chưa phát hiện thấy có các nguy cơ do việc sử dụng chất bảo quản độc hại trên các loại quả táo, lê này. Những khi có sự cố nào trên thế giới hoặc của nước xuất khẩu hoa quả sang Việt Nam, Cục BVTV cũng đều quan tâm, nghiên cứu những thông tin đó nhằm có những bổ sung cần thiết vào quá trình kiểm tra để làm sao phát hiện được các mối nguy và quan trọng nhất ngăn chặn được các mối nguy, đảm bảo an toàn cho người sử dụng ở trong nước. Nguyễn Tiến Dũng Cục trưởng Cục BVTV Nguyễn Xuân Hồng cung cấp nhiều thông tin liên quan để rộng đường dư luận và trấn an người tiêu dùng. PHẢN HỒI. Cạnh tranh khốc liệt Để tồn tại trên thị trường phân bón trăm hoa đua nở” như hiện nay, các doanh nghiệp phải có nhiều chiêu độc”. Gần đây, công ty sản xuất phân bón T.P.N huyện Củ Chi bị công ty T.L tố nhái” nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ độc quyền. Tuy nhiên, khi cơ quan chức năng kiểm tra thì phát hiện sản phẩm bị tố nhái” được sản xuất trước sản phẩm được bảo hộ, nên ai nhái của ai là cả vấn đề còn tranh chấp.. ,Chứng nhận hợp chuẩn giấy vệ sinh - 0903 587 699
Ông Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, cho biết tình hình sử dụng thuốc BVTV hợp pháp xen lẫn thuốc bất hợp pháp còn xảy ra khá nghiêm trọng ở Việt Nam. Theo ông Bổng, thuốc BVTV bất hợp pháp ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường sinh thái, tăng trưởng nông nghiệp, thu nhập của nông dân... Do đó phải có biện pháp ngăn chặn.Cơ quan chức năng thu gom các chai thuốc BVTV bất hợp pháp trên các ruộng trồng rau muống ở TP.HCM. Ảnh: TRẦN NGỌCBà Phùng Mai Vân, Phó Trưởng phòng Thanh tra - Pháp chế, Cục BVTV Bộ NN&PTNT, cho biết trung bình mỗi năm cơ quan chức năng kiểm tra khoảng 500-600 cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV; phát hiện 12%-14% cơ sở vi phạm. Các vi phạm gồm kinh doanh thuốc cấm, giả, ngoài danh mục, không nguồn gốc...Bà Vân đề xuất Chính phủ sớm xây dựng và ban hành Luật Bảo vệ và kiểm định thực vật. Nhanh chóng sửa đổi, bổ sung kịp thời các quyết định pháp luật về quản lý thuốc BVTV, xây dựng chiến lược quản lý thuốc BVTV... TRẦN NGỌC. Giống hoa lily Sorbonne nhập nội của Hà Lan đã được Viện di truyền Nông nghiệp khảo nghiệm và cho trồng chính thức tại các tỉnh phía bắc từ năm 2009. Ảnh: Viện nghiên cứu rau quả. Đó là kiến nghị đáng chú ý tại hội thảo lấy ý kiến đóng góp dự án luật này do Đoàn đại biểu QH TP.HCM tổ chức chiều 9-9. Ông Thái Thành Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục BVTV TP.HCM, cho biết không ít người trồng trọt vứt bừa bãi bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng khiến môi trường bị ảnh hưởng, lại dễ gây tai nạn cho người. Từ năm 2010 đến nay, Chi cục BVTV TP đặt nhiều dụng cụ chứa bao bì thuốc BVTV dọc các khu vực trồng lúa, rau để người trồng trọt bỏ vào. Đến nay, chi cục đã thu gom khoảng 20 tấn bao bì thuốc BVTV và đang trình UBND TP kế hoạch tiêu hủy. Kinh phí tiêu hủy do Nhà nước gánh chịu với số tiền không nhỏ. Hơn nữa, lượng bao bì thuốc BVTV thu gom không nhiều so với lượng thuốc người trồng trọt đã sử dụng” – ông Tâm nói. Theo Trần Ngọc/Pháp luật TP. HCM, 10/09/2013 Các bài cùng chủ đề: WHO kêu gọi ngăn chặn sự can thiệp của ngành công nghiệp thuốc lá Phát hiện doanh nghiệp nước ngoài xả thải ra môi trường Thuốc trừ sâu sinh học – Một giải pháp cho nông nghiệp bền vững Các doanh nghiệp di dời khỏi KCN Biên Hòa 1 được ưu tiên hỗ trợ Nhiều doanh nghiệp quên” xử lý nước thải Doanh nghiệp chung tay ứng phó biến đổi khí hậu Quy định sử dụng doanh thu phí bảo hiểm nông nghiệp Doanh nghiệp tư nhân cần quan tâm hơn đến môi trường Tập huấn tiết kiệm năng lượng cho các doanh nghiệp Doanh nghiệp nào cũng vi phạm. CôngThương - Vấn đề nổi cộm nhất là theo dự thảo, các nhà gia công thuốc BVTV không được coi là nhà sản xuất. Theo các chuyên gia, hàng năm nước ta phải nhập khẩu tới 75% thuốc hoặc nguyên liệu để sản xuất thuốc BVTV. Thực tế này dẫn đến tình trạng không kiểm soát được về chất lượng, tính an toàn cho môi trường và giá cả… Năm 2013, cả nước phải chi 702 triệu USD nhập khẩu thuốc BVTV, riêng 7 tháng đầu năm nay đã nhập khẩu hết 475 triệu USD, trong đó 57% nhập khẩu từ Trung Quốc. Nguyên do là hầu hết các DN trong nước hiện nay chỉ là các nhà gia công thuốc BVTV. Tuy nhiên, nếu chỉ công nhận các nhà sản xuất, chính chúng ta đã tạo cơ hội lớn hơn cho các DN nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia chiếm lĩnh thị trường. DN trong nước sẽ bị xóa sổ, kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp. Nếu mặt hàng thuốc BVTV phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia, chắc chắn khi đó giá thuốc sẽ cao, tác động xã hội sẽ không nhỏ như đã từng xảy ra đối với mặt hàng sữa bột những năm gần đây. Đây đang là vấn đề khiến nhiều DN gia công phân bón trong nước bức xúc, trăn trở. Vì vậy, thông tư cần tạo sự bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa DN trong nước và DN nước ngoài. Hiện nay, việc nghiên cứu ứng dụng chế phẩm sinh học trong phòng trừ sâu hại ở Việt Nam chủ yếu ở trong phòng thí nghiệm và quy mô sản xuất thử nên giá thành còn cao. Khả năng bảo quản thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học của nhiều doanh nghiệp còn chưa cao nên khó khăn trong việc bảo quản, lưu thông, phân phối và sử dụng. Trong khi đó, thông tư cũng chưa có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích việc đưa các chế phẩm sinh học vào đồng ruộng, thay thế dần các loại thuốc BVTV có hàm lượng cao. Theo Thạc sĩ Lê Quốc Điền Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam, giải pháp cấp bách cho vấn đề quản lý thuốc BVTV là phải có hướng dẫn cụ thể về chuyên môn đi đôi với quy hoạch xây dựng vùng chuyên canh hàng hóa lớn. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra việc mua, bán và sử dụng các loại thuốc BVTV bị cấm hoặc hạn chế; tổ chức kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trên rau, củ, quả tại các chợ đầu mối trong bảo vệ thực vật an giang tuyển dụng từng khu vực và cả nước để làm cơ sở đánh giá về quản lý thuốc BVTV tại các vùng, miền… Việt Anh PHẢN HỒI .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét